Thơ Puskin - Nga
Thơ Puskin Song Ngữ
Alexandr Sergeevich Pushkin (tiếng Nga:Александр Сергеевич Пушкин, 6/6/1799 – 10/2/1837) - nhà thơ Nga, người đặt nền móng cho nền văn học Nga mới, người sáng tạo ra ngôn ngữ văn học Nga hiện đại.
Tiểu sử:
Pushkin sinh ở Moskva trong một gia đình có nguồn gốc quí tộc. Bố là Sergei Lvovich Pushkin là một người yêu thích văn học cổ điển Pháp và cũng làm thơ nhưng chỉ những người quen, bạn bè biết. Mẹ là Nadezhda Osipovna có dòng dõi từ một nô lệ da đen của Pyotr Đại đế. Thời thơ ấu, trong những tháng hè, Pushkin thường sống với bà ngoại ở làng Zakharov, ngoại ô Moskva. Ký ức tuổi thơ được thể hiện trong nhiều tác phẩm sau này của ông. Lên 6 tuổi, Pushkin được vào học ở trường Lyceum Hoàng gia ở Tsarskoe Selo. Thời gian học ở đây, Pushkin đã được chứng kiến cuộc Chiến tranh Vệ quốc năm 1812 của nước Nga chống lại quân Pháp của Napoleon. Năm 1815 Pushkin viết bài thơ Hồi ức về Hoàng thôn (Воспоминание о Царском Селе) được Gavrila Derzhavin coi là một tác phẩm kiệt xuất và tôn vinh Pushkin, khi đó mới 16 tuổi, như một nhà thơ lớn của nước Nga.
Học xong Lyceum, Pushkin tích cực tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật của giới quý tộc trí thức trẻ tại Sankt-Peterburg, lúc bấy giờ đang nỗ lực đấu tranh cho một cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ nông nô tại Nga. Thời gian này ông cho ra đời những bài thơ mang tính chính trị như Gửi Chaadaev (К Чаадаеву, 1818); Gửi N. Ya. Plyuskova (Н. Я. Плюсковой, 1818); Làng quê (Деревня, 1819)... Năm 1820 Pushkin cho in bản trường ca đầu tiên của mình - Ruslan và Lyudmila (Руслан и Людмила), ngay lập tức tạo được tiếng vang lớn về phong cách cũng như chủ đề, mặc dù cũng phải chịu sự công kích dữ dội từ phía chính quyền. Mùa xuân 1820, do những bài thơ cách mạng, thống đốc Sankt-Peterburg, bá tước M. Miloradovich, đã quyết định đày Pushkin tới Siberia. Tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ và ảnh hưởng của những người bạn (những nhà văn, nhà thơ lớn của nước Nga), cuối cùng ông chỉ phải chịu mức án nhẹ hơn bị trục xuất khỏi Sankt-Peterburg vô thời hạn.
Sau khi rời Sankt-Peterburg, Pushkin đã đi xuống miền nam nước Nga, tới Kavkaz và Crimea, Moldavia, Kiev. Trong thời gian này ông vẫn tiếp tục cho ra đời những tác phẩm mới có ảnh hưởng rất lớn tới văn học Nga thế kỷ 19, như Người tù Kavkaz (Кавказский пленник, 1822); Gavriiliada (Гавриилиада, 1821); Anh em lũ cướp (Братья разбойники, 1822); Đài phun nước Bakhchisarayskiy (Бахчисарайский фонтан, 1824).
Năm 1823, ở Kishinov, Pushkin bắt tay vào viết tiểu thuyết bằng thơ, kiệt tác Evgeny Onegin (Евгений Онегин). Tháng 7 năm 1824, với đơn xin ân xá, Pushkin được chính quyền cho phép về ở khu trang trại Pskov tại vùng Mikhailovskoe dưới sự kiểm soát của gia đình. Năm 1825, trong lần sang thăm trang trại láng giềng, Pushkin đã gặp nàng Anna Kern, người tạo cho ông cảm hứng để sáng tác bài thơ nổi tiếng Gửi (K***). Theo một thống kê đáng tin cậy thì những bóng hồng đi qua cuộc đời Pushkin, là nguồn cảm hứng cho ông viết nên những bài thơ hay, họ gồm có 113 người. Năm 1831, Pushkin kết hôn với người đẹp Natalia Goncharova. Họ có ba người con (hai gái và một trai).
Chính người đẹp Natalia Goncharova là nguồn cảm hứng cho sáng tạo của Pushkin nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông. Năm 1837, do những tin đồn thất thiệt về quan hệ ngoại tình của vợ mình với Georges d'Anthès, một sỹ quan kỵ binh người Pháp trong quân đội Sa hoàng, Puskin đã thách đấu súng với viên sĩ quan trẻ tuổi này. Cuộc đọ súng đã kết thúc hết sức bi kịch khi cả hai đối thủ đều bị thương, nhưng Puskin đã bị trọng thương và qua đời hai ngày sau đó – 10 tháng 2 năm 1837 (ngày 29 tháng 1, theo lịch cũ).
Tác phẩm:
Aleksander Pushkin sống 37 năm và đã sáng tác 14 trường ca, 1 tiểu thuyết bằng thơ, 7 vở kịch thơ, 7 truyện cổ tích, 15 tác phẩm văn xuôi và 783 bài thơ (đơn vị thơ), trong đó có những bài thơ chưa hoàn thành, những trích đoạn, những bài thơ phác thảo và có
những tổ hợp thơ, ví dụ như “Những bài ca của người Slavơ phương Tây” (Песни западных славян) gồm 14 bài thơ dài cũng được tính bằng 1 đơn vị. Phần dịch sang tiếng Việt của chúng tôi dưới đây có 165 bài (đơn vị thơ), trong đó có những tổ hợp thơ như “Thơ luân lý 4 câu” (gồm 12 bài) hay “Những bài ca của người Slavơ phương Tây”, “Mô phỏng Kinh Koran” cũng được tính bằng 1 đơn vị.
Trường ca:
1- Ruslan và Lyudmila (Руслан и Людмила, 1817-1820)
2- Người tù Kavkaz (Кавказский пленник, 1820-1821)
3- Bài ca Gavriil (Гавриилиада, 1821)
4- Vadim (Вадим, 1821-1822)
5- Anh em lũ cướp (Братья разбойники, 1821-1822)
6- Đài phun Bakhchisaray (Бахчисарайский фонтан, 1821-1823)
7- Đoàn người Digan (Цыганы, 1824)
8- Bá tước Nulin (Граф Нулин, 1825)
9- Poltava (Полтава, 1828-1829)
10- Tazit (Тазит, 1829-1830)
11- Ngôi nhà nhỏ ở Kolomna (Домик в Коломне, 1830)
12- Ezersky (Езерский, 1832)
13- Angelo (Анджело, 1833)
14- Kỵ sĩ đồng (Медный всадник, 1833)
Tiểu thuyết thơ:
1- Yevgeny Onegin (Евгений Онегин, 1823-1832)
Kịch:
1- Boris Godunov (Борис Годунов, 1825)
2- Hiệp sĩ keo kiệt (Скупой рыцарь, 1830)
3- Mozart và Salieri (Моцарт и Сальери, 1830)
4- Vị khách bằng đá (Каменный гость, 1830)
5- Yến tiệc thời thổ tả (Пир во время чумы, 1830)
6- Nàng tiên cá (Русалка, 1829-1832)
7- Những cảnh từ thời hiệp sĩ (Сцены из рыцарских времен, 1835)
Thơ:
- 1813-1825
- 1826-1836
- Thơ Puskin theo ABC (Стихотворения Пушкина по алфавиту)
Văn xuôi:
1- Người da đen của Pyotr Đại đế (Арап Петра Великого, 1827)
2- Tiểu thuyết bằng thư (Роман в письмах, 1829)
3- Tập truyện của Ivan Petrovich Belkin quá cố (Повести покойного Ивана Петровича Белкина, 1830)
4- Bão tuyết (Метель, 1830)
5- Lịch sử làng Goryukhino (История села Горюхина, 1830)
6- Tiểu thư – Nông dân (Барышня-крестьянка, 1830)
7- Người đóng quan tài (Гробовщик, 1830)
8- Người trông coi cố định (Станционный смотритель, 1830)
9- Roslavlyov (Рославлев, 1831)
10- Dubrovsky (Дубровский, 1833)
11- Kirjali (Кирджали, 1834)
12- Con đầm pích (Пиковая дама, 1834)
13- Đêm Ai Cập (Египетские ночи, 1835)
14- Cuộc hành trình đến Arzrum trong năm 1829 (Путешествие в Арзрум во время похода 1829 года, 1835)
15- Người con gái viên Đại úy (Капитанская дочка, 1836)
Truyện cổ tích:
1- Chàng rể (Жених, 1825)
2- Chuyện ông cố đạo và người làm công Balda (Сказка о попе и о работнике его Балде, 1830)
3- Chuyện nhà gấu (Сказка о медведихе, 1830?)
4- Chuyện vua Saltan (Сказка о царе Салтане, 1831)
5- Chuyện ông lão đánh cá và con cá vàng (Сказка о рыбаке и рыбке, 1833)
6- Chuyện nàng công chúa đã chết và bảy tráng sĩ (Сказка о мёртвой царевне и семи богатырях(1833)
7- Chuyện con gà trống vàng (Сказка о золотом петушке, 1834)
165 bài đã dịch ra Tiếng Việt (Song Ngữ Việt - Nga):
1.CHÂN DUNG CỦA TÔI
Bạn yêu cầu bức chân dung của tôi
Mà cần vẽ chính xác như vốn có
Nó sẽ được vẽ nhanh thôi, bạn ạ
Mặc dù đây là tiểu phẩm mà thôi.
Tôi vốn kẻ chơi bời, xin nói thật
Từ những khi còn trên ghế nhà trường
Và tôi cũng xin nói rất thật lòng
Tôi cũng là kẻ không hề dại dột.
Và cũng chẳng hề ba hoa mách lẻo
Rằng ta đây là tiến sĩ Xoóc-bon
Nhưng chẳng có ai người chán ngấy hơn
Là bản chất của tôi như vốn có.
Về chiều cao, so với kẻ cao ngồng
Thì có lẽ chắc gì tôi sánh nổi
Gương mặt tôi nét trẻ trung tươi rói
Mái tóc xoăn và tóc có màu hung.
Tôi vốn yêu cuộc đời, thích đám đông
Sự cô đơn – tôi vô cùng căm ghét
Ghét tranh luận, cãi lộn, và nói thật
Tôi cũng không thích gì chuyện học hành.
Nhảy nhót, diễn kịch – tôi mê vô cùng
Và nếu phải nói một cách chân thật
Thì tôi sẽ nói rằng tôi thích nhất
Là giá như đã không học ở trường.
Theo những điều như thế, bạn mến thương
Bạn có thể biết về tôi cặn kẽ
Tôi được tạo bằng bàn tay của Chúa
Nên tôi muốn là như thế thường xuyên.
Điệu bộ có phần giống quỉ, ngông nghêng
Và gương mặt có phần nào giống khỉ
Thêm vào đó một chút cuồng thi sĩ
Thế là chân dung cho bạn – Pushkin.
1814
Mon Portrait
Vous me demandez mon portrait,
Mais peint d’après nature;
Mon cher, il sera bientôt fait,
Quoique en miniature.
Je suis un jeune polisson,
Encore dans les classes;
Point sot, je le dis sans façon
Et sans fades grimaces.
Onc il ne fut de babillard,
Ni docteur en Sorbonne --
Plus ennuyeux et plus braillard.
Que moi-même en personne.
Ma taille à celles des plus longs
Ne peut être égalée;
J’ai le teint frais, les cheveux blonds
Et le tête bouclée.
J’aime et le monde et son fracas,
Je hais la solitude;
J’abhorre et noises, et débats,
Et tant soit peu l'étude.
Spectacles, bals me plaisent fort
Et d’après ma pensée,
Je dirais ce que j’aime encor…
Si n'étais au Lycée.
Après cela, mon cher ami,
L’on peut me reconnaître:
Oui! tel que le bon dieu me fit,
Je veux toujours paraître.
Vrai démon pour l’espièglerie,
Vrai singe par sa mine,
Beaucoup et trop d'étourderie.
Ma foi, voila Pouchkine.
<1814>
2.THƠ XTĂNG-XƠ
Bạn đã thấy bông hồng vẻ dịu dàng
Người con gái yêu của ngày tươi sáng.
Giữa ngày xuân bông hoa kia nở thắm
Tượng trưng cho cái đẹp của tình chăng?
Trong mắt ta vẻ đẹp tuyệt vời hơn
Nàng Ơ-đô-xi hôm nay tỏa sáng
Vẻ đẹp này với mùa xuân đem sánh
Xinh như hoa và tươi trẻ hơn phần.
Nhưng than ôi! Rồi mưa gió, bão giông
Những đứa con của mùa đông khắc nghiệt
Sẽ bay lượn trên đầu ta gào thét
Bao phủ khắp mặt đất, nước, không trung.
Chẳng còn hoa, sẽ chẳng có hoa hồng
Người con gái của tình yêu nồng thắm
Sẽ héo úa và bông hoa rủ xuống
Thì ngày vui sáng tỏ có còn không.
Ơ-đô-xi hãy gấp gáp vội vàng
Hãy tận hưởng những ngày vui hạnh phúc.
Chẳng lẽ tuổi già lạnh và nước mắt
Còn cảm nhận ra cơn nóng của tình?
1814
Stances
Avez-vous vu la tendre rose,
L'aimable fille d'un beau jour,
Quand au printemps а peine éclose,
Elle est l'image de l'amour?
Telle а nos yeux, plus belle encore.
Parut Eudoxie aujourd'hui;
Plus d'un printemps la vit éclore,
Charmante et jeune comme lui.
Mais, hélas! les vents, les tempêtes,
Ces fougueux enfants de l'Hiver,
Bientôt vont gronder sur nos têtes,
Enchaîner l'eau, la terre et l'air.
Et plus de fleurs, et plus de rose!
L'aimable fille des amours
Tombe fanée, а peine éclose;
Il a fui, le temps des beaux jours!
Eudoxie! aimez, le temps presse;
Profitez de vos jours heureux!
Est-ce dans la froide vieillesse
Que de l'amour on sent les feux?
<1814>
3.GỬI NATASHA
Mùa hè đỏ đang tàn
Ngày sáng dần đi hết
Màn sương mờ trải khắp
Trong bóng tối của đêm.
Đồng ruộng giờ trống không
Dòng suối giờ lạnh ngắt
Rừng xanh giờ đã bạc
Đã tái nhợt trời xanh.
Natasha - ánh sáng
Không thấy bóng thấy hình?
Không muốn đem lòng mình
Sẻ chia cùng người bạn?
Không trên hồ gợn sóng
Không dưới bóng cây xanh
Không còn gặp lại em
Giờ sớm hay giờ muộn.
Một mai này giá lạnh
Trên đồng vắng, trong rừng
Ngọn lửa trong lều con
Một mai này tỏa sáng.
Nhìn thấy em đã chẳng
Như hoàng tước trong lồng
Anh rồi sẽ đau buồn
Khi về em hồi tưởng.
1814
К Наташе
Вянет, вянет лето красно;
Улетают ясны дни;
Стелется туман ненастный
Ночи в дремлющей тени;
Опустели злачны нивы,
Хладен ручеек игривый;
Лес кудрявый поседел;
Свод небесный побледнел.
Свет-Наташа! где ты ныне?
Что никто тебя не зрит?
Иль не хочешь час единый
С другом сердца разделить?
Ни над озером волнистым,
Ни под кровом лип душистым
Ранней — позднею порой
Не встречаюсь я с тобой.
Скоро, скоро холод зимный
Рощу, поле посетит;
Огонек в лачужке дымной
Скоро ярко заблестит;
Не увижу я прелестной
И, как чижик в клетке тесной,
Дома буду горевать
И Наташу вспоминать.
1814
4.MÔ PHỎNG THƠ PHÁP*
Tôi đã mê đắm đuối vợ của anh
Giá số phận cho tôi ba người vợ
Được như vợ của anh trong mọi thứ
Thì hai người tôi hiến quỷ sa tăng
Để nhận người thứ ba quỉ đồng ý.
1814
_______________
*Đây là bài thơ mô phỏng Épigramme VIII của J.-B. Rousseau “J’ai depuis peu vu ta femme nouvelle… ”
Подражание французскому
Супругою твоей я так пленился,
Что если б три в удел достались мне,
Подобные во всем твоей жене,
То даром двух я б отдал сатане
Чтоб третью лишь принять он согласился.
1814
5.THƠ VỀ CHIẾC VÁY*
Anh yêu em, ơi chiếc váy thân thương
Khi mỗi lần trong buổi chiều em đợi
Natalya, áo gấm khi em cởi
Để chỉ còn hình dáng mỏng vây quanh
Còn gì dễ thương hơn thế nữa em?
Khi em vây lấy đôi chân tuyệt mỹ
Những tia nước sáng hơn, trong suốt hơn
Chạm vào nơi có vị thần tuổi trẻ
Đang ngủ yên giữa hoa huệ hoa hồng.
1813
___________
*Đoạn trích từ Trường ca Монах (Tu sĩ).
Люблю тебя, о юбка дорогая
Люблю тебя, о юбка дорогая,
Когда, меня под вечер ожидая,
Наталья, сняв парчовый сарафан,
Тобою лишь окружит тонкий стан.
Что может быть тогда тебя милее?
И ты, виясь вокруг прекрасных ног,
Струи ручьев прозрачнее, светлее,
Касаешься тех мест, где юный бог
Покоится меж розой и лилеей.
6.NGƯỜI CÔ-DẮC
Một hôm vào nửa đêm
Xuyên bóng tối màn sương
Đi trên sông, lặng lẽ
Người Cô-dắc ngang tàng.
Đội lệch chiếc mũ đen
Chiếc áo choàng đầy bụi
Súng lục trên đầu gối
Chạm đất kiếm lưỡi cong.
Ngựa nhanh như mũi tên
Con ngựa chàng trung thành
Trên bờm ngựa nổi sóng
Đi vào chốn xa xăm.
Phía trước mấy nhà con
Rào giậu không còn nữa
Con đường vào làng nhỏ
Rừng thông ngủ mơ màng.
“Không tìm gái trong rừng –
Chàng Denis nghĩ vậy –
Gái ở trong nhà ấy
Thu xếp để qua đêm”
Chàng lắc nhẹ dây cương
Cựa giày thúc nhẹ nhàng
Như mũi tên ngựa phóng
Rẽ vào những nhà con.
Trong mây trăng lấp lóa
Giữa bầu trời xa xôi
Cô gái đẹp đang ngồi
U sầu bên cửa sổ.
Chàng trai nhìn thiếu nữ
Thấy rạo rực trong lòng
Hướng bên trái, ngựa vòng
Đến kề bên cửa sổ.
“Ngoài trời, đêm tối mịt
Trăng đã lặn mất rồi
Em ơi, bước ra đây
Cho ngựa xin miếng nước”.
“Không! Với đàn ông trẻ
Em sợ bước lại gần
Sợ ra khỏi nhà em
Đem nước ra cho ngựa”
“Em ơi, em đừng sợ
Hãy làm bạn cùng anh!”
“Người đẹp sợ bóng đêm”.
“Niềm vui mà, đừng sợ!
Tin lời anh, em ạ
Quên sợ hãi đi em!
Dùng thời gian bạc vàng
Em yêu ơi đừng sợ!
Hãy lên ngựa cùng anh
Đi về chốn xa xăm
Và cùng anh hạnh phúc
Khắp mọi chốn thiên đàng”.
Cô gái thấy xiêu lòng
Và quên ngay nỗi sợ
Đồng ý lên yên ngựa
Chàng hạnh phúc vô cùng.
Ngựa trên đường bước vội
Và chàng đã yêu nàng
Chung thủy trong hai tuần
Tuần thứ ba thay đổi.
1814
__________________
*Bài thơ này mô phỏng một bài hát dân gian nổi tiếng của Ukraina.
Козак
Раз, полунощной порою
Сквозь туман и мрак,
Ехал тихо над рекою
Удалой козак.
Черна шапка на бекрене,
Весь жупан в пыли.
Пистолеты при колене,
Сабля до земли.
Верный конь, узды не чуя,
Шагом выступал;
Гриву долгую волнуя,
Углублялся вдаль.
Вот пред ним две, три избушки, --
Выломан забор;
Здесь — дорога к деревушке,
Там — в дремучий бор.
«Не найду в лесу девицы, --
Думал хват Денис: --
Уж красавицы в светлицы
На ночь убрались».
Шевельнул Донец уздою,
Шпорой прикольнул,
И помчался конь стрелою,
К избам завернул.
В облаках луна сребрила
Дальни небеса;
Под окном сидит уныла
Девица-краса.
Храбрый видит красну деву;
Сердце бьется в нем,
Конь тихонько к леву, к леву --
Вот уж под окном.
«Ночь становится темнее,
Скрылася луна.
Выдь, коханочка, скорее,
Напои коня».
«Нет! к мужчине молодому
Страшно подойти,
Страшно выдти мне из дому,
Коню дать воды».
«Ax! небось, девица красна,
С милым подружись!»
«Ночь красавицам опасна».
«Радость! не страшись!
Верь, коханочка, пустое;
Ложный страх отбрось!
Тратишь время золотое;
Милая, небось!
Сядь на борзого, с тобою
В дальний еду край;
Будешь счастлива со мною:
С другом всюду рай».
Что же девица? Склонилась,
Победила страх,
Робко ехать согласилась.
Счастлив стал козак.
Поскакали, полетели.
Дружку друг любил;
Был ей верен две недели,
В третью изменил.
1814
7.TÒ MÒ
– Có gì mới không? “Lạy Chúa, chẳng có gì”.
– Đừng láu cá: cậu biết điều gì đấy
Thật xấu hổ, với bạn cậu luôn thế
Như với kẻ thù, cứ giấu nhẹm đi.
Hay cậu giận: tha lỗi, vì điều gì?
Đừng bướng bỉnh, dù một lời, hãy nói…
“Cậu biến đi, tớ chỉ biết điều này
Cậu là thằng ngu, mà đấy cũng không hề mới”.
1814 – 1816
Любопытный
— Что ж нового? «Ей-богу, ничего».
— Эй, не хитри: ты верно что-то знаешь.
Не стыдно ли, от друга своего,
Как от врага, ты вечно все скрываешь.
5 Иль ты сердит: помилуй, брат, за что?
Не будь упрям: скажи ты мне хоть слово...
«Ох! отвяжись, я знаю только то,
Что ты дурак, да это уж не ново».
1814-1816
8.GIỌT LỆ
Hôm qua cùng đứa bạn
Ngồi uống chén rượu poong
Tôi buồn, ngồi im lặng
Đưa mắt nhìn con đường.
“Nhìn ra đường chi vậy? –
Người bạn lính hỏi tôi –
Giờ có dẫn bạn bè
Đến chơi nhà bạn gái”.
Đầu tôi cúi xuống ngực
Và sau đó thì thầm:
“Giờ đã không còn nàng!..”
Tôi thở dài – im bặt.
Giọt lệ từ mắt tôi
Đã rơi vào chén rượu.
“Chao ôi, khóc vì gái
Xấu hổ quá bạn ơi!”
“Bạn ơi, nỗi đau này
Bạn làm sao hiểu chứ.
Một giọt lệ là đủ
Đầu độc cả chiếc ly!”…
1815
___________________
*Người bạn gái này là Ekaterina Pavlovna Poltoratskaya (họ khi chưa lấy chồng là Bakunina, 1795-1869) – tình yêu đầu của Pushkin, nguồn cảm hứng cho Pushkin viết hơn 20 bài thơ tình nổi tiếng. Trong danh sách những người tình của Pushkin người này có tên là “Katerina I”.
Слеза
Вчера за чашей пуншевою
С гусаром я сидел
И молча с мрачною душою
На дальний путь глядел.
«Скажи, что смотришь на дорогу? --
Гусар мой вопросил. --
Еще по ней ты, слава богу,
Друзей не проводил».
К груди поникнув головою,
Я скоро прошептал:
«Гусар! уж нет ее со мною!..»
Вздохнул — и замолчал.
Слеза повисла на реснице
И канула в бокал.
«Дитя! ты плачешь о девице,
Стыдись!» — он закричал.
«Оставь, гусар... ох! сердцу больно.
Ты, знать, не горевал.
Увы! одной слезы довольно,
Чтоб отравить бокал!..»
1815
9.GỬI NGƯỜI HỌA SĨ
Những đứa con của thần tiên, xúc cảm
Trong cơn say nồng nhiệt của linh hồn
Nét bút ngang tàng của niềm khoái cảm
Vẽ giùm tôi người bạn của con tim.
Vẻ đẹp duyên dáng của sự trắng trong
Những nét dễ thương của niềm hy vọng
Và nụ cười của niềm vui thần thánh
Và ánh nhìn của sắc đẹp tự thân.
Quanh hình dáng mỏng manh của nữ thần*
Buộc giùm dây lưng của thần Vệ Nữ
Vẻ duyên dáng của Albani** ẩn chứa
Hãy làm ơn đem bao phủ nữ hoàng.
Làm ơn đem những ngọn sóng mong manh
Trùm lên bộ ngực xốn xang rạo rực
Để phía dưới đó thở căng lồng ngực
Và mong thổn thức nhẹ nhõm kín thầm.
Hãy vẽ ước mơ e ấp của tình
Bằng con người mà tôi đây đang thở
Rồi bàn tay hạnh phúc của người tình
Tôi sẽ ký tên của mình dưới đó.
1815
_____________
*Nữ thần Hebe, nữ thần của tuổi trẻ, còn nữ thần của Pushkin là Ekaterina Pavlovna Bakulina (1795-1869), người đầu tiên trong số 113 người tình của Pushkin. E. P. Bakulina là nguồn cảm hứng cho hơn 20 bài thơ tình của ông.
**Francesco Albani (1578-1660) – danh họa Ý theo trường phái Bolognese (Scuola bolognese).
К живописцу
Дитя харит и вдохновенья,
В порыве пламенной души,
Небрежной кистью наслажденья
Мне друга сердца напиши;
Красу невинности прелестной,
Надежды милые черты,
Улыбку радости небесной
И взоры самой красоты.
Вкруг тонкого Гебеи стана
Венерин пояс повяжи,
Сокрытый прелестью Альбана
Мою царицу окружи.
Прозрачны волны покрывала
Накинь на трепетную грудь,
Чтоб и под ним она дышала,
Хотела тайно воздохнуть.
Представь мечту любви стыдливой,
И той, которою дышу,
Рукой любовника счастливой
Внизу я имя подпишу.
1815
10.THƠ MỘ CHÍ CỦA TÔI
Pushkin nằm đây với một nàng thơ trẻ
Đã sống những ngày vui lười nhác với tình
Không làm gì tốt, nhưng sống bằng tấm lòng
Ông là một người tốt, xin lạy Chúa.
1815
Моя эпитафия
Здесь Пушкин погребен; он с музой молодою,
С любовью, леностью провел веселый век,
Не делал доброго, однако ж был душою,
Ей-богу, добрый человек.
<1815>
Xem thêm:
http://thopuskin.blogspot.com/
11.GỬI NÀNG
Elvina*, hãy đưa cho anh bàn tay của em nào
Hãy giữ giùm giấc mơ nặng nề trong đời sống
Còn gặp lại nhau… biệt ly lâu hay chóng
Số phận của anh nghiệt ngã vậy sao?
Chẳng lẽ không bao giờ còn ngoái lại nhìn nhau
Hay bóng đêm đã trùm lên đời anh muôn thuở?
Chẳng lẽ mỗi sáng thức giấc đời không còn nữa
Trong vòng tay âu yếm của tình yêu?
Elvina, tại vì sao trong giờ khắc đêm thâu
Anh không thể nào ôm lấy em trong vui vẻ
Hướng về em đôi mắt với bao khổ sở
Và nỗi đam mê run sợ nôn nao?
Trong niềm vui câm nín, trong khoái lạc ngọt ngào
Tiếng thở dài của em và tiếng rên khe khẽ
Và lặng lẽ trong bóng đêm để niềm vui khơi dậy
Ngủ mơ màng bên cạnh người yêu?
1815
_______________
*Elvina ở đây có thể là Kalorina Sobanskaya.
К ней
Эльвина, милый друг, приди, подай мне руку,
Я вяну, прекрати тяжелый жизни сон;
Скажи — увижу ли…. на долгую ль разлуку
Я роком осуждён?
Ужели никогда на друга друг не взглянет,
Иль вечной темнотой покрыты дни мои?
Ужели никогда нас утро не застанет
В объятиях любви?
Эльвина, почему в часы глубокой ночи
Я не могу тебя с весельем обнимать,
На милую стремить томленья полны очи
И страстью трепетать?
И в радости немой, в восторгах наслажденья
Твой шопот сладостный и тихой стон внимать
И тихо в скромной тьме для неги пробужденья
Близ милой засыпать?
1815
12.THƠ VỀ CÁI CHẾT CỦA MỘT NHÀ THƠ
Ông Klit sẽ không được lên thiên đường
Vì ông đã viết những lỗi lầm rất nặng.
Hãy để Thượng Đế quên việc làm của ông
Như thơ ông người đời từng quên lãng.
1813 – 1817
Эпиграмма на смерть стихотворца
Покойник Клит в раю не будет:
Творил он тяжкие грехи. -
Пусть бог дела его забудет,
Как свет забыл его стихи!
1813-1817
13.CUỘC ĐỜI NÀY VẪN THẾ
Cuộc đời này vẫn thế đã muôn năm
Chẳng có gì khác với thuở hồng hoang:
Bác học nhiều – người thông minh có ít
Người quen nhiều vô khối – bạn thì không!
1816
Всегда так будет как бывало
Всегда так будет как бывало:
Таков издревле белый свет:
Ученых много — умных мало,
Знакомых тьма — а друга нет!
1816
14.CỦA EM VÀ CỦA ANH*
Có trời biết vì sao các nhà thơ, nhà triết học
Từ lâu tranh luận đề tài của anh và của em
Anh không tranh cãi với học thuyết đám đông
Nhưng em ạ, tin thì anh không dám chắc.
Rằng, chẳng lẽ em đã không là của anh?
Và anh đã không là của em, duy nhất?
1814-1816
Твой и мой
Бог весть, за что философы, пииты
На твой и мой давным-давно сердиты.
Не спорю я с ученой их толпой,
Но и бранить причины не имею
То, что дарит мне радость и покой,
Что, ежели б ты не была моею?
Что, ежели б я не был, Ниса, твой?
1814-1816
_____________
*Tranh luận về đề tài “của em và của anh”, nghĩa là về nguồn gốc của quyền sở hữu, quả thật là một đề tài thường xuyên của các nhà triết học khai sáng và các nhà thơ thời đó. Cũng về đề tài này, sau đó, Pushkin đã viết bài thơ bằng tiếng Pháp “Tien et mien…”
15.CỦA EM VÀ CỦA ANH
“Của em và của anh – Lafontaine đã viết –
Làm mất đi bao nhiêu liên kết ở trần gian” –
Điều này đối với anh, anh không tin chắc
Chuyện gì sẽ xảy ra hở Climène của anh
Nếu như em sẽ không còn là của anh
Và anh không còn là của em, duy nhất?
1818-1819
Tien et mien
„Tien et mien, – dit Lafontaine –
Du monde a rompu le lien“.–
Quant à moi, je n’en crois rien.
Que serait ce, ma Climène,
Si tu n’étais plus la mienne,
Si je n’étais plus le tien?
1818-1819
16.DI CHÚC CỦA KUCHELBECKER*
Bạn bè ơi, tôi xin để lại lời di chúc
Tôi để lại những giàu có, niềm vui
Những hờn giận, bài ca – tôi quên hết
Để người cũng sẽ quên đống nợ của tôi.
1816
_____________
*Wilhelm Küchelbecker (1797 – 1846) – nhà thơ Nga, bạn của Pushkin.
Завещание Кюхельбекера
Друзья, простите! Завещаю
Вам всё, чем рад и чем богат;
Обиды, песни — всё прощаю.
А мне пускай долги простят.
1816
17.NGƯỜI CA SĨ
Em có nghe trong rừng đêm thanh vắng
Ca nỗi buồn người ca sĩ tình yêu?
Trên cánh đồng buổi sớm mai yên lặng
Tiếng sáo diều dung dị hát cô liêu
Em có nghe thấy chăng?
Em có gặp trong rừng hoang đêm ấy
Ca nỗi buồn người ca sĩ tình yêu?
Giọt lệ nhòa, nụ cười em có thấy
Ánh mắt nhìn buồn bã biết bao nhiêu
Em có gặp gỡ chăng?
Em có thổn thức nghe lời lặng lẽ
Ca nỗi buồn người ca sĩ tình yêu
Khi trong rừng chàng trai em để ý
Gặp ánh nhìn trong mắt đã nhòa theo
Em có thổn thức chăng?
1816
Певец
Слыхали ль вы за рощей глас ночной
Певца любви, певца своей печали?
Когда поля в час утренний молчали,
Свирели звук унылый и простой --
Слыхали ль вы?
Встречали ль вы в пустынной тьме лесной
Певца любви, певца своей печали?
Прискорбную ль улыбку замечали,
Иль тихий взор, исполненный тоской, --
Встречали вы?
Вздохнули ль вы, внимая тихой глас
Певца любви, певца своей печали?
Когда в лесах вы юношу видали,
Встречая взор его потухших глаз --
Вздохнули ль вы?
1816
18.GỬI CÁC BẠN
Trời còn cho các anh
Bao ngày ngọc đêm vàng
Ánh mắt bao cô gái
Còn chăm chú nhìn sang.
Cứ vui đùa, hát lên
Với ngày tháng trôi nhanh
Tôi cười qua nước mắt
Niềm vui của các anh.
1816
Друзьям
Богами вам еще даны
Златые дни, златые ночи,
И томных дев устремлены
На вас внимательные очи.
Играйте, пойте, о друзья!
Утратьте вечер скоротечный;
И вашей радости беспечной
Сквозь слезы улыбнуся я.
1816
19.ĐIỀU MONG ƯỚC
Ngày tháng của tôi cứ trôi chầm chậm
Trong tim buồn mỗi khoảnh khắc nhân lên
Mọi khổ đau của tình yêu bất hạnh
Làm âu lo những mơ ước điên cuồng.
Tôi khóc đây, nước mắt – nguồn an ủi
Nhưng chẳng nghe tiếng nức nở của tôi
Tâm hồn tôi đang ngập tràn buồn tủi
Trong nỗi buồn tôi tìm thấy niềm vui.
Giấc mơ đời! Bay đi, tôi chẳng tiếc
Hãy biến vào trong hoang vắng, cô liêu
Chỉ đau khổ tình yêu tôi thân thiết
Tôi chết đây nhưng chết bởi vì yêu!
1816
Желание
Медлительно влекутся дни мои,
И каждый миг в унылом сердце множит
Все горести несчастливой любви
И все мечты безумия тревожит.
Но я молчу; не слышен ропот мой;
Я слезы лью; мне слезы утешенье;
Моя душа, плененная тоской,
В них горькое находит наслажденье.
О жизни час! лети, не жаль тебя,
Исчезни в тьме, пустое привиденье;
Мне дорого любви моей мученье --
Пускай умру, но пусть умру любя!
<1816>
20.THƠ ỨNG KHẨU VỚI AGAREVA
Anh ngồi trước mặt em trong im lặng
Cảm thấy điều khổ nhục thật hoài công
Nhìn sang em thật vô cùng phí uổng
Anh không nói ra cái vẻ chân thành
Điều đang nói với em từ tưởng tượng.
1816
Экспромт на Огареву
В молчанье пред тобой сижу,
Напрасно чувствую мученье,
Напрасно на тебя гляжу:
Того уж верно не скажу,
Что говорит воображенье.
1816
21.CHÂN LÝ
Những nhà thông thái từ lâu đi tìm
Dấu vết của Chân lý bị bỏ quên
Rồi rất lâu, rất lâu họ bình luận
Những lý lẽ của các bậc tiền nhân.
Họ nhắc lại rằng: “Chân lý trần truồng
Đã bí mật chạy trốn vào đáy giếng”
Rồi cùng nhau múc nước lên họ uống
Và hô to: “Chân lý đã được tìm!”
Nhưng rồi có người hằng phúc nào đấy
(Hình như đó là ông già Silen*)
Người đã chứng kiến những sự ngu đần
Nước và tiếng kêu làm ông mệt mỏi
Điều mà ta không thấy, ông bỏ lại
Ông là người nghĩ về rượu đầu tiên
Rồi ông cạn chén đến giọt cuối cùng
Thì nhìn thấy Chân lý nằm dưới đáy.
1816
_____________
*Silen (Silenus) – theo thần thoại Hy Lạp là vị thần xuyên say rượu có tài tiên tri. Silen có thể đoán tương lai một cách chính xác trong tình trạng ngủ say.
Истина
Издавна мудрые искали
Забытых истины следов
И долго, долго толковали
Давнишни толки стариков.
Твердили: «Истина нагая
В колодезь убралась тайком» --
И, дружно воду выпивая,
Кричали: «Здесь ее найдем!»
Но кто-то, смертных благодетель
(И чуть ли не старик Силен),
Их важной глупости свидетель,
Водой и криком утомлен,
Оставил невидимку нашу,
Подумал первый о вине
И, осушив до капли чашу,
Увидел истину на дне.
1816
22.THƠ CHO PUCHKOVA
Em kêu lên rằng em là trinh nữ
Trong mỗi bài thơ như thế làm gì?
Anh thấy rằng người ca sĩ Eva
Đang cố gắng để tìm ra chàng rể.
1816
______________
*Ekaterina Naumova Puchkova (1792 – 1867) – nữ nhà văn Nga.
На Пучкову
Зачем кричишь ты, что ты дева,
На каждом девственном стихе?
О, вижу я, певица Ева,
Хлопочешь ты о женихе.
<1816>
23.CHỈ TÌNH YÊU
Chỉ tình là niềm vui của đời giá lạnh
Chỉ tình yêu là nỗi khổ của con tim
Tình ban cho chỉ khoảnh khắc vui mừng
Mà khổ đau thì kéo dài vô tận.
Ai đang trẻ trung một trăm lần vui sướng
Hãy nắm bắt giây phút thoáng qua nhanh
Ai đang hướng về niềm vui lạ lẫm
Vẻ đẹp e ấp hãy biết tôn sùng.
Nhưng có ai cho tình yêu không hiến đời mình?
Những ca sĩ của tự do hãy bằng tình cảm
Trước người đẹp nhẫn nhục bằng tấm lòng
Ca ngợi niềm đam mê – bằng bàn tay kiêu hãnh
Hãy dâng người đẹp vương miện của mình.
Cupid đui mù, nghiệt ngã và thành kiến
Đã thỏa thuận riêng cùng các nữ thần
Ban cho các người cả hoa tươi, gai nhọn
Ban phát niềm vui cho một người này
Còn người khác đành đau khổ muôn đời
Vì ngọn lửa của tình yêu bất hạnh.
Hỡi những con cháu của Tibullus, Parny*!
Các người biết vẻ ngọt ngào của đời quí giá
Như ánh bình minh chiếu rọi những ngày xanh
Hãy hát lên ca ngợi niềm vui tuổi trẻ
Hãy ép bờ môi vào những bờ môi rực lửa
Chết trong vòng tay âu yếm của người tình
Những câu thơ tình hãy nấc lên nhè nhẹ!...
Hạnh phúc của các người ta chẳng dám ghen.
Ca sĩ của tình yêu! Ngươi đã biết nỗi buồn
Ngày tháng của ngươi đã trôi trên gai nhọn
Ngươi đã hồi hộp gọi về ngày cuối tận
Và nó đã đến rồi, trong đời sống xa xăm
Ngươi chưa nhìn ra trò vui rất chóng vánh
Và chưa tìm ra hạnh phúc của đời mình
Nhưng mà ít ra ngươi đã có vinh quang
Bằng đau khổ của mình, ngươi trở thành bất tử!
Số kiếp của tôi không cho mình như thế
Dưới bóng mờ của những đám mây đen
Trong thung lũng sâu, trong bóng tối của rừng
Tôi u sầu, trong cô đơn thơ thẩn
Trong buổi hoàng hôn, bên hồ nước xám
Thường nức nở trong nước mắt, nỗi buồn
Nhưng đáp lại chỉ rì rầm tiếng sóng
Và chỉ nghe tiếng xào xạc của rừng
Liệu có dứt giữa hồn giấc mơ lạnh
Và say mê của thơ có cháy lên
Sinh ra cơn nóng, rồi lặng lẽ tàn
Sẽ qua đi nguồn cảm xúc phí uổng
Cứ để thơ cho người khác tôn vinh
Người được yêu – còn tôi yêu một mình!..
Tôi yêu, tôi yêu!.. nhưng nàng không tơ tưởng
Giọng khổ đau, và nàng không mở miệng
Cười với thơ người cẩu thả, giản đơn.
Thì hát làm gì? Dưới gốc cây phong
Bỏ lại cho cơn gió nơi đồng vắng
Và mãi mãi thơ ca không cần đến
Biến như làn khói nhẹ chút tài hèn.
1816
_______________
*Albius Tibullus (55 – 19 tr.CN) – nhà thơ La Mã cổ đại, Évariste de Parny (1753 – 1814) – nhà thơ Pháp.
Любовь одна — веселье жизни хладной
Любовь одна — веселье жизни хладной,
Любовь одна — мучение сердец:
Она дарит один лишь миг отрадный,
А горестям не виден и конец.
Стократ блажен, кто в юности прелестной
Сей быстрый миг поймает на лету;
Кто к радостям и неге неизвестной
Стыдливую преклонит красоту!
Но кто любви не жертвовал собою?
Вы, чувствами свободные певцы!
Пред милыми смирялись вы душою,
Вы пели страсть — и гордою рукою
Красавицам несли свои венцы.
Слепой Амур, жестокий и пристрастный,
Вам терния и мирты раздавал;
С пермесскими царицами согласный,
Иным из вас на радость указал;
Других навек печалями связал
И в дар послал огонь любви несчастной.
Наследники Тибулла и Парни!
Вы знаете бесценной жизни сладость;
Как утра луч, сияют ваши дни.
Певцы любви! младую пойте радость,
Склонив уста к пылающим устам,
В объятиях любовниц умирайте;
Стихи любви тихонько воздыхайте!..
Завидовать уже не смею вам.
Певцы любви! вы ведали печали,
И ваши дни по терниям текли;
Вы свой конец с волненьем призывали;
Пришел конец, и в жизненной дали
Не зрели вы минутную забаву;
Но, не нашед блаженства ваших дней,
Вы встретили по крайней мере славу,
И мукою бессмертны вы своей!
Не тот удел судьбою мне назначен:
Под сумрачным навесом облаков,
В глуши долин, в печальной тьме лесов,
Один, один брожу уныл и мрачен.
В вечерний час над озером седым
В тоске, слезах, нередко я стенаю;
Но ропот волн стенаниям моим
И шум дубрав в ответ лишь я внимаю.
Прервется ли души холодный сон,
Поэзии зажжется ль упоенье, --
Родится жар, и тихо стынет он:
Бесплодное проходит вдохновенье.
Пускай она прославится другим,
Один люблю, — он любит и любим!..
Люблю, люблю!.. но к ней уж не коснется
Страдальца глас; она не улыбнется
Его стихам небрежным и простым.
К чему мне петь? под кленом полевым
Оставил я пустынному зефиру
Уж навсегда покинутую лиру,
И слабый дар как легкий скрылся дым.
<1816>
24.THƯ GỬI P. A. VYAZEMSKY
Phước cho ai trong tiếng ồn thành phố
Mơ ước về nơi hiu quạnh, cô đơn
Ai nhìn thấy chỉ nơi chốn xa xăm
Sa mạc, vườn, và ngôi nhà thôn dã
Những ngọn đồi với rừng cây lặng lẽ
Thung lũng cùng với suối nước reo vang
Bầy súc vật cùng với trẻ mục đồng
Phước cho ai với bạn bè yêu quí
Ngồi bên chiếc bàn đến tận nửa đêm
Bằng những bài thơ Nga đem chế nhạo
Những kẻ người Xlavơ ngu đần
Phước cho ai không từ giã nhà mình
Nơi thành phố Moskva ầm ĩ…
Không phải trong mơ mà trên thực tế
Giờ này đang ân ái với người tình!..
1816
Из письма к кн. П. А. Вяземскому
Блажен, кто в шуме городском
Мечтает об уединенье,
Кто видит только в отдаленье
Пустыню, садик, сельский дом,
5 Холмы с безмолвными лесами,
Долину с резвым ручейком
И даже… стадо с пастухом!
Блажен, кто с добрыми друзьями
Сидит до ночи за столом
И над славянскими глупцами
Смеется русскими стихами;
Блажен, кто шумную Москву
Для хижинки не покидает…
И не во сне, а наяву
Свою любовницу ласкает!..
1816
25.VÀO ALBUM
Những tháng ngày ước mơ rồi sẽ tắt
Ánh sáng ồn ào rồi sẽ gọi ta
Còn ai nhớ đến những lần gặp mặt
Và tình bạn của những tháng ngày qua?
Cho phép tôi trong những dòng lưu bút
Giữ vết tích giây lát cho người ta.
1817
В альбом
Когда погаснут дни мечтанья
И позовет нас шумный свет,
Кто вспомнит братские свиданья
И дружество минувших лет?
Позволь в листах воспоминанья
Оставить им минутный след
1817
26.THƠ ĐỀ VÀO CHÂN DUNG KAVERIN
Trong người anh cơn nóng chiến tranh và rượu vẫn sôi lên
Ngoài công viên Thần chiến tranh* anh là người lính dữ
Với bè bạn trung thành, với người đẹp – là người tình đau khổ
Và ở khắp mọi nơi anh là người lính – kỵ binh.
1817
________________
*Công viên Marsovo Polye ở Saint Petersburg, theo thần thoại Hy Lạp: Mars là thần chiến tranh.
К портрету Каверина
В нём пунша и войны кипит всегдашний жар,
На Марсовых полях он грозный был воитель,
Друзьям он верный друг, красавицам мучитель,
И всюду он гусар.
1817
27.GỬI BỨC THƯ
Trong thư là những niềm vui của tôi, khi tôi chết
Hãy để cho bức thư chạm vào ngực của tôi
Rất có thể, bạn bè thân mến ơi
Rất có thể con tim tôi lại đập.
1817
К письму
В нем радости мои; когда померкну я,
Пускай оно груди бесчувственной коснется:
Быть может, милые друзья,
Быть может сердце вновь забьется.
<1817>
28.CHỚ DỌA DẪM CON LƯỜI
Chớ dọa dẫm con lười đang còn trẻ
Tôi không đợi chờ cái chết yểu đâu.
Trong vòng hoa tình yêu sẽ đi vào
Không nghĩ suy và không hề rơi lệ.
Tôi sống ít, tận hưởng còn ít quá…
Nhưng đôi khi đã ngắt cánh hoa vui –
Và cuộc đời tôi chỉ mới bắt đầu.
1817
Не угрожай ленивцу молодому...
Не угрожай ленивцу молодому.
Безвременной кончины я не жду.
В венке любви к приюту гробовому
Не думав ни о чем, без ропота иду.
Я мало жил, я наслаждался мало...
Но иногда цветы веселья рвал --
Я жизни видел лишь начало
1817
29.DÒNG CHỮ TRÊN TƯỜNG BỆNH VIỆN
Chàng sinh viên ốm đang nằm kia
Số phận của chàng thật khắt khe.
Thuốc men xin hãy mang đi khỏi
Tình yêu là thứ bệnh nan y!
1817
Надпись на стене больницы
Вот здесь лежит больной студент;
Его судьба неумолима.
Несите прочь медикамент:
Болезнь любви неизлечима!
1817
30.GỬI
Xin đừng hỏi sao tôi thường u ám
Với ý nghĩ buồn giữa những trò vui
Sao đưa ánh mắt cau có nhìn đời
Sao giấc mộng ngọt ngào không thương mến!
Xin đừng hỏi sao tình yêu vui vậy
Tôi chia tay bằng tê tái cõi lòng
Không một ai tôi còn gọi người thương –
Ai yêu một lần, không còn yêu lại
Ai biết hạnh phúc, không còn biết lại
Hạnh phúc trong giây phút được trời ban:
Từ thời tuổi trẻ say mê ngập tràn
Chỉ một nỗi buồn tái tê còn lại…
1817
К ***
Не спрашивай, зачем унылой думой
Среди забав я часто омрачен,
Зачем на всё подъемлю взор угрюмый,
Зачем не мил мне сладкой жизни сон;
Не спрашивай, зачем душой остылой
Я разлюбил веселую любовь
И никого не называю милой --
Кто раз любил, уж не полюбит вновь;
Кто счастье знал, уж не узнает счастья.
На краткий миг блаженство нам дано:
От юности, от нег и сладострастья
Останется уныние одно...
1817
31.VÀO ALBUM
Tình sẽ đi qua, ước mong sẽ chết
Ánh sáng lạnh lùng sẽ chia lìa ta
Còn ai nhớ đến những lần gặp mặt
Mơ ước, hân hoan của tháng ngày qua?..
Cho phép tôi trong những trang lưu bút
Giữ vết tích giây lát cho người ta.
1817
В альбом
Пройдет любовь, умрут желанья;
Разлучит нас холодный свет;
Кто вспомнит тайные свиданья,
Мечты, восторги прежних лет?..
Позволь в листах воспоминанья
Оставить им минутный след.
<1817>
Tiểu sử:
Pushkin sinh ở Moskva trong một gia đình có nguồn gốc quí tộc. Bố là Sergei Lvovich Pushkin là một người yêu thích văn học cổ điển Pháp và cũng làm thơ nhưng chỉ những người quen, bạn bè biết. Mẹ là Nadezhda Osipovna có dòng dõi từ một nô lệ da đen của Pyotr Đại đế. Thời thơ ấu, trong những tháng hè, Pushkin thường sống với bà ngoại ở làng Zakharov, ngoại ô Moskva. Ký ức tuổi thơ được thể hiện trong nhiều tác phẩm sau này của ông. Lên 6 tuổi, Pushkin được vào học ở trường Lyceum Hoàng gia ở Tsarskoe Selo. Thời gian học ở đây, Pushkin đã được chứng kiến cuộc Chiến tranh Vệ quốc năm 1812 của nước Nga chống lại quân Pháp của Napoleon. Năm 1815 Pushkin viết bài thơ Hồi ức về Hoàng thôn (Воспоминание о Царском Селе) được Gavrila Derzhavin coi là một tác phẩm kiệt xuất và tôn vinh Pushkin, khi đó mới 16 tuổi, như một nhà thơ lớn của nước Nga.
Học xong Lyceum, Pushkin tích cực tham gia vào các hoạt động văn học nghệ thuật của giới quý tộc trí thức trẻ tại Sankt-Peterburg, lúc bấy giờ đang nỗ lực đấu tranh cho một cuộc cách mạng xoá bỏ chế độ nông nô tại Nga. Thời gian này ông cho ra đời những bài thơ mang tính chính trị như Gửi Chaadaev (К Чаадаеву, 1818); Gửi N. Ya. Plyuskova (Н. Я. Плюсковой, 1818); Làng quê (Деревня, 1819)... Năm 1820 Pushkin cho in bản trường ca đầu tiên của mình - Ruslan và Lyudmila (Руслан и Людмила), ngay lập tức tạo được tiếng vang lớn về phong cách cũng như chủ đề, mặc dù cũng phải chịu sự công kích dữ dội từ phía chính quyền. Mùa xuân 1820, do những bài thơ cách mạng, thống đốc Sankt-Peterburg, bá tước M. Miloradovich, đã quyết định đày Pushkin tới Siberia. Tuy nhiên nhờ sự giúp đỡ và ảnh hưởng của những người bạn (những nhà văn, nhà thơ lớn của nước Nga), cuối cùng ông chỉ phải chịu mức án nhẹ hơn bị trục xuất khỏi Sankt-Peterburg vô thời hạn.
Sau khi rời Sankt-Peterburg, Pushkin đã đi xuống miền nam nước Nga, tới Kavkaz và Crimea, Moldavia, Kiev. Trong thời gian này ông vẫn tiếp tục cho ra đời những tác phẩm mới có ảnh hưởng rất lớn tới văn học Nga thế kỷ 19, như Người tù Kavkaz (Кавказский пленник, 1822); Gavriiliada (Гавриилиада, 1821); Anh em lũ cướp (Братья разбойники, 1822); Đài phun nước Bakhchisarayskiy (Бахчисарайский фонтан, 1824).
Năm 1823, ở Kishinov, Pushkin bắt tay vào viết tiểu thuyết bằng thơ, kiệt tác Evgeny Onegin (Евгений Онегин). Tháng 7 năm 1824, với đơn xin ân xá, Pushkin được chính quyền cho phép về ở khu trang trại Pskov tại vùng Mikhailovskoe dưới sự kiểm soát của gia đình. Năm 1825, trong lần sang thăm trang trại láng giềng, Pushkin đã gặp nàng Anna Kern, người tạo cho ông cảm hứng để sáng tác bài thơ nổi tiếng Gửi (K***). Theo một thống kê đáng tin cậy thì những bóng hồng đi qua cuộc đời Pushkin, là nguồn cảm hứng cho ông viết nên những bài thơ hay, họ gồm có 113 người. Năm 1831, Pushkin kết hôn với người đẹp Natalia Goncharova. Họ có ba người con (hai gái và một trai).
Chính người đẹp Natalia Goncharova là nguồn cảm hứng cho sáng tạo của Pushkin nhưng cũng là nguyên nhân dẫn đến cái chết của ông. Năm 1837, do những tin đồn thất thiệt về quan hệ ngoại tình của vợ mình với Georges d'Anthès, một sỹ quan kỵ binh người Pháp trong quân đội Sa hoàng, Puskin đã thách đấu súng với viên sĩ quan trẻ tuổi này. Cuộc đọ súng đã kết thúc hết sức bi kịch khi cả hai đối thủ đều bị thương, nhưng Puskin đã bị trọng thương và qua đời hai ngày sau đó – 10 tháng 2 năm 1837 (ngày 29 tháng 1, theo lịch cũ).
Tác phẩm:
Aleksander Pushkin sống 37 năm và đã sáng tác 14 trường ca, 1 tiểu thuyết bằng thơ, 7 vở kịch thơ, 7 truyện cổ tích, 15 tác phẩm văn xuôi và 783 bài thơ (đơn vị thơ), trong đó có những bài thơ chưa hoàn thành, những trích đoạn, những bài thơ phác thảo và có
những tổ hợp thơ, ví dụ như “Những bài ca của người Slavơ phương Tây” (Песни западных славян) gồm 14 bài thơ dài cũng được tính bằng 1 đơn vị. Phần dịch sang tiếng Việt của chúng tôi dưới đây có 165 bài (đơn vị thơ), trong đó có những tổ hợp thơ như “Thơ luân lý 4 câu” (gồm 12 bài) hay “Những bài ca của người Slavơ phương Tây”, “Mô phỏng Kinh Koran” cũng được tính bằng 1 đơn vị.
Trường ca:
1- Ruslan và Lyudmila (Руслан и Людмила, 1817-1820)
2- Người tù Kavkaz (Кавказский пленник, 1820-1821)
3- Bài ca Gavriil (Гавриилиада, 1821)
4- Vadim (Вадим, 1821-1822)
5- Anh em lũ cướp (Братья разбойники, 1821-1822)
6- Đài phun Bakhchisaray (Бахчисарайский фонтан, 1821-1823)
7- Đoàn người Digan (Цыганы, 1824)
8- Bá tước Nulin (Граф Нулин, 1825)
9- Poltava (Полтава, 1828-1829)
10- Tazit (Тазит, 1829-1830)
11- Ngôi nhà nhỏ ở Kolomna (Домик в Коломне, 1830)
12- Ezersky (Езерский, 1832)
13- Angelo (Анджело, 1833)
14- Kỵ sĩ đồng (Медный всадник, 1833)
Tiểu thuyết thơ:
1- Yevgeny Onegin (Евгений Онегин, 1823-1832)
Kịch:
1- Boris Godunov (Борис Годунов, 1825)
2- Hiệp sĩ keo kiệt (Скупой рыцарь, 1830)
3- Mozart và Salieri (Моцарт и Сальери, 1830)
4- Vị khách bằng đá (Каменный гость, 1830)
5- Yến tiệc thời thổ tả (Пир во время чумы, 1830)
6- Nàng tiên cá (Русалка, 1829-1832)
7- Những cảnh từ thời hiệp sĩ (Сцены из рыцарских времен, 1835)
Thơ:
- 1813-1825
- 1826-1836
- Thơ Puskin theo ABC (Стихотворения Пушкина по алфавиту)
Văn xuôi:
1- Người da đen của Pyotr Đại đế (Арап Петра Великого, 1827)
2- Tiểu thuyết bằng thư (Роман в письмах, 1829)
3- Tập truyện của Ivan Petrovich Belkin quá cố (Повести покойного Ивана Петровича Белкина, 1830)
4- Bão tuyết (Метель, 1830)
5- Lịch sử làng Goryukhino (История села Горюхина, 1830)
6- Tiểu thư – Nông dân (Барышня-крестьянка, 1830)
7- Người đóng quan tài (Гробовщик, 1830)
8- Người trông coi cố định (Станционный смотритель, 1830)
9- Roslavlyov (Рославлев, 1831)
10- Dubrovsky (Дубровский, 1833)
11- Kirjali (Кирджали, 1834)
12- Con đầm pích (Пиковая дама, 1834)
13- Đêm Ai Cập (Египетские ночи, 1835)
14- Cuộc hành trình đến Arzrum trong năm 1829 (Путешествие в Арзрум во время похода 1829 года, 1835)
15- Người con gái viên Đại úy (Капитанская дочка, 1836)
Truyện cổ tích:
1- Chàng rể (Жених, 1825)
2- Chuyện ông cố đạo và người làm công Balda (Сказка о попе и о работнике его Балде, 1830)
3- Chuyện nhà gấu (Сказка о медведихе, 1830?)
4- Chuyện vua Saltan (Сказка о царе Салтане, 1831)
5- Chuyện ông lão đánh cá và con cá vàng (Сказка о рыбаке и рыбке, 1833)
6- Chuyện nàng công chúa đã chết và bảy tráng sĩ (Сказка о мёртвой царевне и семи богатырях(1833)
7- Chuyện con gà trống vàng (Сказка о золотом петушке, 1834)
165 bài đã dịch ra Tiếng Việt (Song Ngữ Việt - Nga):
1.CHÂN DUNG CỦA TÔI
Bạn yêu cầu bức chân dung của tôi
Mà cần vẽ chính xác như vốn có
Nó sẽ được vẽ nhanh thôi, bạn ạ
Mặc dù đây là tiểu phẩm mà thôi.
Tôi vốn kẻ chơi bời, xin nói thật
Từ những khi còn trên ghế nhà trường
Và tôi cũng xin nói rất thật lòng
Tôi cũng là kẻ không hề dại dột.
Và cũng chẳng hề ba hoa mách lẻo
Rằng ta đây là tiến sĩ Xoóc-bon
Nhưng chẳng có ai người chán ngấy hơn
Là bản chất của tôi như vốn có.
Về chiều cao, so với kẻ cao ngồng
Thì có lẽ chắc gì tôi sánh nổi
Gương mặt tôi nét trẻ trung tươi rói
Mái tóc xoăn và tóc có màu hung.
Tôi vốn yêu cuộc đời, thích đám đông
Sự cô đơn – tôi vô cùng căm ghét
Ghét tranh luận, cãi lộn, và nói thật
Tôi cũng không thích gì chuyện học hành.
Nhảy nhót, diễn kịch – tôi mê vô cùng
Và nếu phải nói một cách chân thật
Thì tôi sẽ nói rằng tôi thích nhất
Là giá như đã không học ở trường.
Theo những điều như thế, bạn mến thương
Bạn có thể biết về tôi cặn kẽ
Tôi được tạo bằng bàn tay của Chúa
Nên tôi muốn là như thế thường xuyên.
Điệu bộ có phần giống quỉ, ngông nghêng
Và gương mặt có phần nào giống khỉ
Thêm vào đó một chút cuồng thi sĩ
Thế là chân dung cho bạn – Pushkin.
1814
Mon Portrait
Vous me demandez mon portrait,
Mais peint d’après nature;
Mon cher, il sera bientôt fait,
Quoique en miniature.
Je suis un jeune polisson,
Encore dans les classes;
Point sot, je le dis sans façon
Et sans fades grimaces.
Onc il ne fut de babillard,
Ni docteur en Sorbonne --
Plus ennuyeux et plus braillard.
Que moi-même en personne.
Ma taille à celles des plus longs
Ne peut être égalée;
J’ai le teint frais, les cheveux blonds
Et le tête bouclée.
J’aime et le monde et son fracas,
Je hais la solitude;
J’abhorre et noises, et débats,
Et tant soit peu l'étude.
Spectacles, bals me plaisent fort
Et d’après ma pensée,
Je dirais ce que j’aime encor…
Si n'étais au Lycée.
Après cela, mon cher ami,
L’on peut me reconnaître:
Oui! tel que le bon dieu me fit,
Je veux toujours paraître.
Vrai démon pour l’espièglerie,
Vrai singe par sa mine,
Beaucoup et trop d'étourderie.
Ma foi, voila Pouchkine.
<1814>
2.THƠ XTĂNG-XƠ
Bạn đã thấy bông hồng vẻ dịu dàng
Người con gái yêu của ngày tươi sáng.
Giữa ngày xuân bông hoa kia nở thắm
Tượng trưng cho cái đẹp của tình chăng?
Trong mắt ta vẻ đẹp tuyệt vời hơn
Nàng Ơ-đô-xi hôm nay tỏa sáng
Vẻ đẹp này với mùa xuân đem sánh
Xinh như hoa và tươi trẻ hơn phần.
Nhưng than ôi! Rồi mưa gió, bão giông
Những đứa con của mùa đông khắc nghiệt
Sẽ bay lượn trên đầu ta gào thét
Bao phủ khắp mặt đất, nước, không trung.
Chẳng còn hoa, sẽ chẳng có hoa hồng
Người con gái của tình yêu nồng thắm
Sẽ héo úa và bông hoa rủ xuống
Thì ngày vui sáng tỏ có còn không.
Ơ-đô-xi hãy gấp gáp vội vàng
Hãy tận hưởng những ngày vui hạnh phúc.
Chẳng lẽ tuổi già lạnh và nước mắt
Còn cảm nhận ra cơn nóng của tình?
1814
Stances
Avez-vous vu la tendre rose,
L'aimable fille d'un beau jour,
Quand au printemps а peine éclose,
Elle est l'image de l'amour?
Telle а nos yeux, plus belle encore.
Parut Eudoxie aujourd'hui;
Plus d'un printemps la vit éclore,
Charmante et jeune comme lui.
Mais, hélas! les vents, les tempêtes,
Ces fougueux enfants de l'Hiver,
Bientôt vont gronder sur nos têtes,
Enchaîner l'eau, la terre et l'air.
Et plus de fleurs, et plus de rose!
L'aimable fille des amours
Tombe fanée, а peine éclose;
Il a fui, le temps des beaux jours!
Eudoxie! aimez, le temps presse;
Profitez de vos jours heureux!
Est-ce dans la froide vieillesse
Que de l'amour on sent les feux?
<1814>
3.GỬI NATASHA
Mùa hè đỏ đang tàn
Ngày sáng dần đi hết
Màn sương mờ trải khắp
Trong bóng tối của đêm.
Đồng ruộng giờ trống không
Dòng suối giờ lạnh ngắt
Rừng xanh giờ đã bạc
Đã tái nhợt trời xanh.
Natasha - ánh sáng
Không thấy bóng thấy hình?
Không muốn đem lòng mình
Sẻ chia cùng người bạn?
Không trên hồ gợn sóng
Không dưới bóng cây xanh
Không còn gặp lại em
Giờ sớm hay giờ muộn.
Một mai này giá lạnh
Trên đồng vắng, trong rừng
Ngọn lửa trong lều con
Một mai này tỏa sáng.
Nhìn thấy em đã chẳng
Như hoàng tước trong lồng
Anh rồi sẽ đau buồn
Khi về em hồi tưởng.
1814
К Наташе
Вянет, вянет лето красно;
Улетают ясны дни;
Стелется туман ненастный
Ночи в дремлющей тени;
Опустели злачны нивы,
Хладен ручеек игривый;
Лес кудрявый поседел;
Свод небесный побледнел.
Свет-Наташа! где ты ныне?
Что никто тебя не зрит?
Иль не хочешь час единый
С другом сердца разделить?
Ни над озером волнистым,
Ни под кровом лип душистым
Ранней — позднею порой
Не встречаюсь я с тобой.
Скоро, скоро холод зимный
Рощу, поле посетит;
Огонек в лачужке дымной
Скоро ярко заблестит;
Не увижу я прелестной
И, как чижик в клетке тесной,
Дома буду горевать
И Наташу вспоминать.
1814
4.MÔ PHỎNG THƠ PHÁP*
Tôi đã mê đắm đuối vợ của anh
Giá số phận cho tôi ba người vợ
Được như vợ của anh trong mọi thứ
Thì hai người tôi hiến quỷ sa tăng
Để nhận người thứ ba quỉ đồng ý.
1814
_______________
*Đây là bài thơ mô phỏng Épigramme VIII của J.-B. Rousseau “J’ai depuis peu vu ta femme nouvelle… ”
Подражание французскому
Супругою твоей я так пленился,
Что если б три в удел достались мне,
Подобные во всем твоей жене,
То даром двух я б отдал сатане
Чтоб третью лишь принять он согласился.
1814
5.THƠ VỀ CHIẾC VÁY*
Anh yêu em, ơi chiếc váy thân thương
Khi mỗi lần trong buổi chiều em đợi
Natalya, áo gấm khi em cởi
Để chỉ còn hình dáng mỏng vây quanh
Còn gì dễ thương hơn thế nữa em?
Khi em vây lấy đôi chân tuyệt mỹ
Những tia nước sáng hơn, trong suốt hơn
Chạm vào nơi có vị thần tuổi trẻ
Đang ngủ yên giữa hoa huệ hoa hồng.
1813
___________
*Đoạn trích từ Trường ca Монах (Tu sĩ).
Люблю тебя, о юбка дорогая
Люблю тебя, о юбка дорогая,
Когда, меня под вечер ожидая,
Наталья, сняв парчовый сарафан,
Тобою лишь окружит тонкий стан.
Что может быть тогда тебя милее?
И ты, виясь вокруг прекрасных ног,
Струи ручьев прозрачнее, светлее,
Касаешься тех мест, где юный бог
Покоится меж розой и лилеей.
6.NGƯỜI CÔ-DẮC
Một hôm vào nửa đêm
Xuyên bóng tối màn sương
Đi trên sông, lặng lẽ
Người Cô-dắc ngang tàng.
Đội lệch chiếc mũ đen
Chiếc áo choàng đầy bụi
Súng lục trên đầu gối
Chạm đất kiếm lưỡi cong.
Ngựa nhanh như mũi tên
Con ngựa chàng trung thành
Trên bờm ngựa nổi sóng
Đi vào chốn xa xăm.
Phía trước mấy nhà con
Rào giậu không còn nữa
Con đường vào làng nhỏ
Rừng thông ngủ mơ màng.
“Không tìm gái trong rừng –
Chàng Denis nghĩ vậy –
Gái ở trong nhà ấy
Thu xếp để qua đêm”
Chàng lắc nhẹ dây cương
Cựa giày thúc nhẹ nhàng
Như mũi tên ngựa phóng
Rẽ vào những nhà con.
Trong mây trăng lấp lóa
Giữa bầu trời xa xôi
Cô gái đẹp đang ngồi
U sầu bên cửa sổ.
Chàng trai nhìn thiếu nữ
Thấy rạo rực trong lòng
Hướng bên trái, ngựa vòng
Đến kề bên cửa sổ.
“Ngoài trời, đêm tối mịt
Trăng đã lặn mất rồi
Em ơi, bước ra đây
Cho ngựa xin miếng nước”.
“Không! Với đàn ông trẻ
Em sợ bước lại gần
Sợ ra khỏi nhà em
Đem nước ra cho ngựa”
“Em ơi, em đừng sợ
Hãy làm bạn cùng anh!”
“Người đẹp sợ bóng đêm”.
“Niềm vui mà, đừng sợ!
Tin lời anh, em ạ
Quên sợ hãi đi em!
Dùng thời gian bạc vàng
Em yêu ơi đừng sợ!
Hãy lên ngựa cùng anh
Đi về chốn xa xăm
Và cùng anh hạnh phúc
Khắp mọi chốn thiên đàng”.
Cô gái thấy xiêu lòng
Và quên ngay nỗi sợ
Đồng ý lên yên ngựa
Chàng hạnh phúc vô cùng.
Ngựa trên đường bước vội
Và chàng đã yêu nàng
Chung thủy trong hai tuần
Tuần thứ ba thay đổi.
1814
__________________
*Bài thơ này mô phỏng một bài hát dân gian nổi tiếng của Ukraina.
Козак
Раз, полунощной порою
Сквозь туман и мрак,
Ехал тихо над рекою
Удалой козак.
Черна шапка на бекрене,
Весь жупан в пыли.
Пистолеты при колене,
Сабля до земли.
Верный конь, узды не чуя,
Шагом выступал;
Гриву долгую волнуя,
Углублялся вдаль.
Вот пред ним две, три избушки, --
Выломан забор;
Здесь — дорога к деревушке,
Там — в дремучий бор.
«Не найду в лесу девицы, --
Думал хват Денис: --
Уж красавицы в светлицы
На ночь убрались».
Шевельнул Донец уздою,
Шпорой прикольнул,
И помчался конь стрелою,
К избам завернул.
В облаках луна сребрила
Дальни небеса;
Под окном сидит уныла
Девица-краса.
Храбрый видит красну деву;
Сердце бьется в нем,
Конь тихонько к леву, к леву --
Вот уж под окном.
«Ночь становится темнее,
Скрылася луна.
Выдь, коханочка, скорее,
Напои коня».
«Нет! к мужчине молодому
Страшно подойти,
Страшно выдти мне из дому,
Коню дать воды».
«Ax! небось, девица красна,
С милым подружись!»
«Ночь красавицам опасна».
«Радость! не страшись!
Верь, коханочка, пустое;
Ложный страх отбрось!
Тратишь время золотое;
Милая, небось!
Сядь на борзого, с тобою
В дальний еду край;
Будешь счастлива со мною:
С другом всюду рай».
Что же девица? Склонилась,
Победила страх,
Робко ехать согласилась.
Счастлив стал козак.
Поскакали, полетели.
Дружку друг любил;
Был ей верен две недели,
В третью изменил.
1814
7.TÒ MÒ
– Có gì mới không? “Lạy Chúa, chẳng có gì”.
– Đừng láu cá: cậu biết điều gì đấy
Thật xấu hổ, với bạn cậu luôn thế
Như với kẻ thù, cứ giấu nhẹm đi.
Hay cậu giận: tha lỗi, vì điều gì?
Đừng bướng bỉnh, dù một lời, hãy nói…
“Cậu biến đi, tớ chỉ biết điều này
Cậu là thằng ngu, mà đấy cũng không hề mới”.
1814 – 1816
Любопытный
— Что ж нового? «Ей-богу, ничего».
— Эй, не хитри: ты верно что-то знаешь.
Не стыдно ли, от друга своего,
Как от врага, ты вечно все скрываешь.
5 Иль ты сердит: помилуй, брат, за что?
Не будь упрям: скажи ты мне хоть слово...
«Ох! отвяжись, я знаю только то,
Что ты дурак, да это уж не ново».
1814-1816
8.GIỌT LỆ
Hôm qua cùng đứa bạn
Ngồi uống chén rượu poong
Tôi buồn, ngồi im lặng
Đưa mắt nhìn con đường.
“Nhìn ra đường chi vậy? –
Người bạn lính hỏi tôi –
Giờ có dẫn bạn bè
Đến chơi nhà bạn gái”.
Đầu tôi cúi xuống ngực
Và sau đó thì thầm:
“Giờ đã không còn nàng!..”
Tôi thở dài – im bặt.
Giọt lệ từ mắt tôi
Đã rơi vào chén rượu.
“Chao ôi, khóc vì gái
Xấu hổ quá bạn ơi!”
“Bạn ơi, nỗi đau này
Bạn làm sao hiểu chứ.
Một giọt lệ là đủ
Đầu độc cả chiếc ly!”…
1815
___________________
*Người bạn gái này là Ekaterina Pavlovna Poltoratskaya (họ khi chưa lấy chồng là Bakunina, 1795-1869) – tình yêu đầu của Pushkin, nguồn cảm hứng cho Pushkin viết hơn 20 bài thơ tình nổi tiếng. Trong danh sách những người tình của Pushkin người này có tên là “Katerina I”.
Слеза
Вчера за чашей пуншевою
С гусаром я сидел
И молча с мрачною душою
На дальний путь глядел.
«Скажи, что смотришь на дорогу? --
Гусар мой вопросил. --
Еще по ней ты, слава богу,
Друзей не проводил».
К груди поникнув головою,
Я скоро прошептал:
«Гусар! уж нет ее со мною!..»
Вздохнул — и замолчал.
Слеза повисла на реснице
И канула в бокал.
«Дитя! ты плачешь о девице,
Стыдись!» — он закричал.
«Оставь, гусар... ох! сердцу больно.
Ты, знать, не горевал.
Увы! одной слезы довольно,
Чтоб отравить бокал!..»
1815
9.GỬI NGƯỜI HỌA SĨ
Những đứa con của thần tiên, xúc cảm
Trong cơn say nồng nhiệt của linh hồn
Nét bút ngang tàng của niềm khoái cảm
Vẽ giùm tôi người bạn của con tim.
Vẻ đẹp duyên dáng của sự trắng trong
Những nét dễ thương của niềm hy vọng
Và nụ cười của niềm vui thần thánh
Và ánh nhìn của sắc đẹp tự thân.
Quanh hình dáng mỏng manh của nữ thần*
Buộc giùm dây lưng của thần Vệ Nữ
Vẻ duyên dáng của Albani** ẩn chứa
Hãy làm ơn đem bao phủ nữ hoàng.
Làm ơn đem những ngọn sóng mong manh
Trùm lên bộ ngực xốn xang rạo rực
Để phía dưới đó thở căng lồng ngực
Và mong thổn thức nhẹ nhõm kín thầm.
Hãy vẽ ước mơ e ấp của tình
Bằng con người mà tôi đây đang thở
Rồi bàn tay hạnh phúc của người tình
Tôi sẽ ký tên của mình dưới đó.
1815
_____________
*Nữ thần Hebe, nữ thần của tuổi trẻ, còn nữ thần của Pushkin là Ekaterina Pavlovna Bakulina (1795-1869), người đầu tiên trong số 113 người tình của Pushkin. E. P. Bakulina là nguồn cảm hứng cho hơn 20 bài thơ tình của ông.
**Francesco Albani (1578-1660) – danh họa Ý theo trường phái Bolognese (Scuola bolognese).
К живописцу
Дитя харит и вдохновенья,
В порыве пламенной души,
Небрежной кистью наслажденья
Мне друга сердца напиши;
Красу невинности прелестной,
Надежды милые черты,
Улыбку радости небесной
И взоры самой красоты.
Вкруг тонкого Гебеи стана
Венерин пояс повяжи,
Сокрытый прелестью Альбана
Мою царицу окружи.
Прозрачны волны покрывала
Накинь на трепетную грудь,
Чтоб и под ним она дышала,
Хотела тайно воздохнуть.
Представь мечту любви стыдливой,
И той, которою дышу,
Рукой любовника счастливой
Внизу я имя подпишу.
1815
10.THƠ MỘ CHÍ CỦA TÔI
Pushkin nằm đây với một nàng thơ trẻ
Đã sống những ngày vui lười nhác với tình
Không làm gì tốt, nhưng sống bằng tấm lòng
Ông là một người tốt, xin lạy Chúa.
1815
Моя эпитафия
Здесь Пушкин погребен; он с музой молодою,
С любовью, леностью провел веселый век,
Не делал доброго, однако ж был душою,
Ей-богу, добрый человек.
<1815>
Xem thêm:
http://thopuskin.blogspot.com/
11.GỬI NÀNG
Elvina*, hãy đưa cho anh bàn tay của em nào
Hãy giữ giùm giấc mơ nặng nề trong đời sống
Còn gặp lại nhau… biệt ly lâu hay chóng
Số phận của anh nghiệt ngã vậy sao?
Chẳng lẽ không bao giờ còn ngoái lại nhìn nhau
Hay bóng đêm đã trùm lên đời anh muôn thuở?
Chẳng lẽ mỗi sáng thức giấc đời không còn nữa
Trong vòng tay âu yếm của tình yêu?
Elvina, tại vì sao trong giờ khắc đêm thâu
Anh không thể nào ôm lấy em trong vui vẻ
Hướng về em đôi mắt với bao khổ sở
Và nỗi đam mê run sợ nôn nao?
Trong niềm vui câm nín, trong khoái lạc ngọt ngào
Tiếng thở dài của em và tiếng rên khe khẽ
Và lặng lẽ trong bóng đêm để niềm vui khơi dậy
Ngủ mơ màng bên cạnh người yêu?
1815
_______________
*Elvina ở đây có thể là Kalorina Sobanskaya.
К ней
Эльвина, милый друг, приди, подай мне руку,
Я вяну, прекрати тяжелый жизни сон;
Скажи — увижу ли…. на долгую ль разлуку
Я роком осуждён?
Ужели никогда на друга друг не взглянет,
Иль вечной темнотой покрыты дни мои?
Ужели никогда нас утро не застанет
В объятиях любви?
Эльвина, почему в часы глубокой ночи
Я не могу тебя с весельем обнимать,
На милую стремить томленья полны очи
И страстью трепетать?
И в радости немой, в восторгах наслажденья
Твой шопот сладостный и тихой стон внимать
И тихо в скромной тьме для неги пробужденья
Близ милой засыпать?
1815
12.THƠ VỀ CÁI CHẾT CỦA MỘT NHÀ THƠ
Ông Klit sẽ không được lên thiên đường
Vì ông đã viết những lỗi lầm rất nặng.
Hãy để Thượng Đế quên việc làm của ông
Như thơ ông người đời từng quên lãng.
1813 – 1817
Эпиграмма на смерть стихотворца
Покойник Клит в раю не будет:
Творил он тяжкие грехи. -
Пусть бог дела его забудет,
Как свет забыл его стихи!
1813-1817
13.CUỘC ĐỜI NÀY VẪN THẾ
Cuộc đời này vẫn thế đã muôn năm
Chẳng có gì khác với thuở hồng hoang:
Bác học nhiều – người thông minh có ít
Người quen nhiều vô khối – bạn thì không!
1816
Всегда так будет как бывало
Всегда так будет как бывало:
Таков издревле белый свет:
Ученых много — умных мало,
Знакомых тьма — а друга нет!
1816
14.CỦA EM VÀ CỦA ANH*
Có trời biết vì sao các nhà thơ, nhà triết học
Từ lâu tranh luận đề tài của anh và của em
Anh không tranh cãi với học thuyết đám đông
Nhưng em ạ, tin thì anh không dám chắc.
Rằng, chẳng lẽ em đã không là của anh?
Và anh đã không là của em, duy nhất?
1814-1816
Твой и мой
Бог весть, за что философы, пииты
На твой и мой давным-давно сердиты.
Не спорю я с ученой их толпой,
Но и бранить причины не имею
То, что дарит мне радость и покой,
Что, ежели б ты не была моею?
Что, ежели б я не был, Ниса, твой?
1814-1816
_____________
*Tranh luận về đề tài “của em và của anh”, nghĩa là về nguồn gốc của quyền sở hữu, quả thật là một đề tài thường xuyên của các nhà triết học khai sáng và các nhà thơ thời đó. Cũng về đề tài này, sau đó, Pushkin đã viết bài thơ bằng tiếng Pháp “Tien et mien…”
15.CỦA EM VÀ CỦA ANH
“Của em và của anh – Lafontaine đã viết –
Làm mất đi bao nhiêu liên kết ở trần gian” –
Điều này đối với anh, anh không tin chắc
Chuyện gì sẽ xảy ra hở Climène của anh
Nếu như em sẽ không còn là của anh
Và anh không còn là của em, duy nhất?
1818-1819
Tien et mien
„Tien et mien, – dit Lafontaine –
Du monde a rompu le lien“.–
Quant à moi, je n’en crois rien.
Que serait ce, ma Climène,
Si tu n’étais plus la mienne,
Si je n’étais plus le tien?
1818-1819
16.DI CHÚC CỦA KUCHELBECKER*
Bạn bè ơi, tôi xin để lại lời di chúc
Tôi để lại những giàu có, niềm vui
Những hờn giận, bài ca – tôi quên hết
Để người cũng sẽ quên đống nợ của tôi.
1816
_____________
*Wilhelm Küchelbecker (1797 – 1846) – nhà thơ Nga, bạn của Pushkin.
Завещание Кюхельбекера
Друзья, простите! Завещаю
Вам всё, чем рад и чем богат;
Обиды, песни — всё прощаю.
А мне пускай долги простят.
1816
17.NGƯỜI CA SĨ
Em có nghe trong rừng đêm thanh vắng
Ca nỗi buồn người ca sĩ tình yêu?
Trên cánh đồng buổi sớm mai yên lặng
Tiếng sáo diều dung dị hát cô liêu
Em có nghe thấy chăng?
Em có gặp trong rừng hoang đêm ấy
Ca nỗi buồn người ca sĩ tình yêu?
Giọt lệ nhòa, nụ cười em có thấy
Ánh mắt nhìn buồn bã biết bao nhiêu
Em có gặp gỡ chăng?
Em có thổn thức nghe lời lặng lẽ
Ca nỗi buồn người ca sĩ tình yêu
Khi trong rừng chàng trai em để ý
Gặp ánh nhìn trong mắt đã nhòa theo
Em có thổn thức chăng?
1816
Певец
Слыхали ль вы за рощей глас ночной
Певца любви, певца своей печали?
Когда поля в час утренний молчали,
Свирели звук унылый и простой --
Слыхали ль вы?
Встречали ль вы в пустынной тьме лесной
Певца любви, певца своей печали?
Прискорбную ль улыбку замечали,
Иль тихий взор, исполненный тоской, --
Встречали вы?
Вздохнули ль вы, внимая тихой глас
Певца любви, певца своей печали?
Когда в лесах вы юношу видали,
Встречая взор его потухших глаз --
Вздохнули ль вы?
1816
18.GỬI CÁC BẠN
Trời còn cho các anh
Bao ngày ngọc đêm vàng
Ánh mắt bao cô gái
Còn chăm chú nhìn sang.
Cứ vui đùa, hát lên
Với ngày tháng trôi nhanh
Tôi cười qua nước mắt
Niềm vui của các anh.
1816
Друзьям
Богами вам еще даны
Златые дни, златые ночи,
И томных дев устремлены
На вас внимательные очи.
Играйте, пойте, о друзья!
Утратьте вечер скоротечный;
И вашей радости беспечной
Сквозь слезы улыбнуся я.
1816
19.ĐIỀU MONG ƯỚC
Ngày tháng của tôi cứ trôi chầm chậm
Trong tim buồn mỗi khoảnh khắc nhân lên
Mọi khổ đau của tình yêu bất hạnh
Làm âu lo những mơ ước điên cuồng.
Tôi khóc đây, nước mắt – nguồn an ủi
Nhưng chẳng nghe tiếng nức nở của tôi
Tâm hồn tôi đang ngập tràn buồn tủi
Trong nỗi buồn tôi tìm thấy niềm vui.
Giấc mơ đời! Bay đi, tôi chẳng tiếc
Hãy biến vào trong hoang vắng, cô liêu
Chỉ đau khổ tình yêu tôi thân thiết
Tôi chết đây nhưng chết bởi vì yêu!
1816
Желание
Медлительно влекутся дни мои,
И каждый миг в унылом сердце множит
Все горести несчастливой любви
И все мечты безумия тревожит.
Но я молчу; не слышен ропот мой;
Я слезы лью; мне слезы утешенье;
Моя душа, плененная тоской,
В них горькое находит наслажденье.
О жизни час! лети, не жаль тебя,
Исчезни в тьме, пустое привиденье;
Мне дорого любви моей мученье --
Пускай умру, но пусть умру любя!
<1816>
20.THƠ ỨNG KHẨU VỚI AGAREVA
Anh ngồi trước mặt em trong im lặng
Cảm thấy điều khổ nhục thật hoài công
Nhìn sang em thật vô cùng phí uổng
Anh không nói ra cái vẻ chân thành
Điều đang nói với em từ tưởng tượng.
1816
Экспромт на Огареву
В молчанье пред тобой сижу,
Напрасно чувствую мученье,
Напрасно на тебя гляжу:
Того уж верно не скажу,
Что говорит воображенье.
1816
21.CHÂN LÝ
Những nhà thông thái từ lâu đi tìm
Dấu vết của Chân lý bị bỏ quên
Rồi rất lâu, rất lâu họ bình luận
Những lý lẽ của các bậc tiền nhân.
Họ nhắc lại rằng: “Chân lý trần truồng
Đã bí mật chạy trốn vào đáy giếng”
Rồi cùng nhau múc nước lên họ uống
Và hô to: “Chân lý đã được tìm!”
Nhưng rồi có người hằng phúc nào đấy
(Hình như đó là ông già Silen*)
Người đã chứng kiến những sự ngu đần
Nước và tiếng kêu làm ông mệt mỏi
Điều mà ta không thấy, ông bỏ lại
Ông là người nghĩ về rượu đầu tiên
Rồi ông cạn chén đến giọt cuối cùng
Thì nhìn thấy Chân lý nằm dưới đáy.
1816
_____________
*Silen (Silenus) – theo thần thoại Hy Lạp là vị thần xuyên say rượu có tài tiên tri. Silen có thể đoán tương lai một cách chính xác trong tình trạng ngủ say.
Истина
Издавна мудрые искали
Забытых истины следов
И долго, долго толковали
Давнишни толки стариков.
Твердили: «Истина нагая
В колодезь убралась тайком» --
И, дружно воду выпивая,
Кричали: «Здесь ее найдем!»
Но кто-то, смертных благодетель
(И чуть ли не старик Силен),
Их важной глупости свидетель,
Водой и криком утомлен,
Оставил невидимку нашу,
Подумал первый о вине
И, осушив до капли чашу,
Увидел истину на дне.
1816
22.THƠ CHO PUCHKOVA
Em kêu lên rằng em là trinh nữ
Trong mỗi bài thơ như thế làm gì?
Anh thấy rằng người ca sĩ Eva
Đang cố gắng để tìm ra chàng rể.
1816
______________
*Ekaterina Naumova Puchkova (1792 – 1867) – nữ nhà văn Nga.
На Пучкову
Зачем кричишь ты, что ты дева,
На каждом девственном стихе?
О, вижу я, певица Ева,
Хлопочешь ты о женихе.
<1816>
23.CHỈ TÌNH YÊU
Chỉ tình là niềm vui của đời giá lạnh
Chỉ tình yêu là nỗi khổ của con tim
Tình ban cho chỉ khoảnh khắc vui mừng
Mà khổ đau thì kéo dài vô tận.
Ai đang trẻ trung một trăm lần vui sướng
Hãy nắm bắt giây phút thoáng qua nhanh
Ai đang hướng về niềm vui lạ lẫm
Vẻ đẹp e ấp hãy biết tôn sùng.
Nhưng có ai cho tình yêu không hiến đời mình?
Những ca sĩ của tự do hãy bằng tình cảm
Trước người đẹp nhẫn nhục bằng tấm lòng
Ca ngợi niềm đam mê – bằng bàn tay kiêu hãnh
Hãy dâng người đẹp vương miện của mình.
Cupid đui mù, nghiệt ngã và thành kiến
Đã thỏa thuận riêng cùng các nữ thần
Ban cho các người cả hoa tươi, gai nhọn
Ban phát niềm vui cho một người này
Còn người khác đành đau khổ muôn đời
Vì ngọn lửa của tình yêu bất hạnh.
Hỡi những con cháu của Tibullus, Parny*!
Các người biết vẻ ngọt ngào của đời quí giá
Như ánh bình minh chiếu rọi những ngày xanh
Hãy hát lên ca ngợi niềm vui tuổi trẻ
Hãy ép bờ môi vào những bờ môi rực lửa
Chết trong vòng tay âu yếm của người tình
Những câu thơ tình hãy nấc lên nhè nhẹ!...
Hạnh phúc của các người ta chẳng dám ghen.
Ca sĩ của tình yêu! Ngươi đã biết nỗi buồn
Ngày tháng của ngươi đã trôi trên gai nhọn
Ngươi đã hồi hộp gọi về ngày cuối tận
Và nó đã đến rồi, trong đời sống xa xăm
Ngươi chưa nhìn ra trò vui rất chóng vánh
Và chưa tìm ra hạnh phúc của đời mình
Nhưng mà ít ra ngươi đã có vinh quang
Bằng đau khổ của mình, ngươi trở thành bất tử!
Số kiếp của tôi không cho mình như thế
Dưới bóng mờ của những đám mây đen
Trong thung lũng sâu, trong bóng tối của rừng
Tôi u sầu, trong cô đơn thơ thẩn
Trong buổi hoàng hôn, bên hồ nước xám
Thường nức nở trong nước mắt, nỗi buồn
Nhưng đáp lại chỉ rì rầm tiếng sóng
Và chỉ nghe tiếng xào xạc của rừng
Liệu có dứt giữa hồn giấc mơ lạnh
Và say mê của thơ có cháy lên
Sinh ra cơn nóng, rồi lặng lẽ tàn
Sẽ qua đi nguồn cảm xúc phí uổng
Cứ để thơ cho người khác tôn vinh
Người được yêu – còn tôi yêu một mình!..
Tôi yêu, tôi yêu!.. nhưng nàng không tơ tưởng
Giọng khổ đau, và nàng không mở miệng
Cười với thơ người cẩu thả, giản đơn.
Thì hát làm gì? Dưới gốc cây phong
Bỏ lại cho cơn gió nơi đồng vắng
Và mãi mãi thơ ca không cần đến
Biến như làn khói nhẹ chút tài hèn.
1816
_______________
*Albius Tibullus (55 – 19 tr.CN) – nhà thơ La Mã cổ đại, Évariste de Parny (1753 – 1814) – nhà thơ Pháp.
Любовь одна — веселье жизни хладной
Любовь одна — веселье жизни хладной,
Любовь одна — мучение сердец:
Она дарит один лишь миг отрадный,
А горестям не виден и конец.
Стократ блажен, кто в юности прелестной
Сей быстрый миг поймает на лету;
Кто к радостям и неге неизвестной
Стыдливую преклонит красоту!
Но кто любви не жертвовал собою?
Вы, чувствами свободные певцы!
Пред милыми смирялись вы душою,
Вы пели страсть — и гордою рукою
Красавицам несли свои венцы.
Слепой Амур, жестокий и пристрастный,
Вам терния и мирты раздавал;
С пермесскими царицами согласный,
Иным из вас на радость указал;
Других навек печалями связал
И в дар послал огонь любви несчастной.
Наследники Тибулла и Парни!
Вы знаете бесценной жизни сладость;
Как утра луч, сияют ваши дни.
Певцы любви! младую пойте радость,
Склонив уста к пылающим устам,
В объятиях любовниц умирайте;
Стихи любви тихонько воздыхайте!..
Завидовать уже не смею вам.
Певцы любви! вы ведали печали,
И ваши дни по терниям текли;
Вы свой конец с волненьем призывали;
Пришел конец, и в жизненной дали
Не зрели вы минутную забаву;
Но, не нашед блаженства ваших дней,
Вы встретили по крайней мере славу,
И мукою бессмертны вы своей!
Не тот удел судьбою мне назначен:
Под сумрачным навесом облаков,
В глуши долин, в печальной тьме лесов,
Один, один брожу уныл и мрачен.
В вечерний час над озером седым
В тоске, слезах, нередко я стенаю;
Но ропот волн стенаниям моим
И шум дубрав в ответ лишь я внимаю.
Прервется ли души холодный сон,
Поэзии зажжется ль упоенье, --
Родится жар, и тихо стынет он:
Бесплодное проходит вдохновенье.
Пускай она прославится другим,
Один люблю, — он любит и любим!..
Люблю, люблю!.. но к ней уж не коснется
Страдальца глас; она не улыбнется
Его стихам небрежным и простым.
К чему мне петь? под кленом полевым
Оставил я пустынному зефиру
Уж навсегда покинутую лиру,
И слабый дар как легкий скрылся дым.
<1816>
24.THƯ GỬI P. A. VYAZEMSKY
Phước cho ai trong tiếng ồn thành phố
Mơ ước về nơi hiu quạnh, cô đơn
Ai nhìn thấy chỉ nơi chốn xa xăm
Sa mạc, vườn, và ngôi nhà thôn dã
Những ngọn đồi với rừng cây lặng lẽ
Thung lũng cùng với suối nước reo vang
Bầy súc vật cùng với trẻ mục đồng
Phước cho ai với bạn bè yêu quí
Ngồi bên chiếc bàn đến tận nửa đêm
Bằng những bài thơ Nga đem chế nhạo
Những kẻ người Xlavơ ngu đần
Phước cho ai không từ giã nhà mình
Nơi thành phố Moskva ầm ĩ…
Không phải trong mơ mà trên thực tế
Giờ này đang ân ái với người tình!..
1816
Из письма к кн. П. А. Вяземскому
Блажен, кто в шуме городском
Мечтает об уединенье,
Кто видит только в отдаленье
Пустыню, садик, сельский дом,
5 Холмы с безмолвными лесами,
Долину с резвым ручейком
И даже… стадо с пастухом!
Блажен, кто с добрыми друзьями
Сидит до ночи за столом
И над славянскими глупцами
Смеется русскими стихами;
Блажен, кто шумную Москву
Для хижинки не покидает…
И не во сне, а наяву
Свою любовницу ласкает!..
1816
25.VÀO ALBUM
Những tháng ngày ước mơ rồi sẽ tắt
Ánh sáng ồn ào rồi sẽ gọi ta
Còn ai nhớ đến những lần gặp mặt
Và tình bạn của những tháng ngày qua?
Cho phép tôi trong những dòng lưu bút
Giữ vết tích giây lát cho người ta.
1817
В альбом
Когда погаснут дни мечтанья
И позовет нас шумный свет,
Кто вспомнит братские свиданья
И дружество минувших лет?
Позволь в листах воспоминанья
Оставить им минутный след
1817
26.THƠ ĐỀ VÀO CHÂN DUNG KAVERIN
Trong người anh cơn nóng chiến tranh và rượu vẫn sôi lên
Ngoài công viên Thần chiến tranh* anh là người lính dữ
Với bè bạn trung thành, với người đẹp – là người tình đau khổ
Và ở khắp mọi nơi anh là người lính – kỵ binh.
1817
________________
*Công viên Marsovo Polye ở Saint Petersburg, theo thần thoại Hy Lạp: Mars là thần chiến tranh.
К портрету Каверина
В нём пунша и войны кипит всегдашний жар,
На Марсовых полях он грозный был воитель,
Друзьям он верный друг, красавицам мучитель,
И всюду он гусар.
1817
27.GỬI BỨC THƯ
Trong thư là những niềm vui của tôi, khi tôi chết
Hãy để cho bức thư chạm vào ngực của tôi
Rất có thể, bạn bè thân mến ơi
Rất có thể con tim tôi lại đập.
1817
К письму
В нем радости мои; когда померкну я,
Пускай оно груди бесчувственной коснется:
Быть может, милые друзья,
Быть может сердце вновь забьется.
<1817>
28.CHỚ DỌA DẪM CON LƯỜI
Chớ dọa dẫm con lười đang còn trẻ
Tôi không đợi chờ cái chết yểu đâu.
Trong vòng hoa tình yêu sẽ đi vào
Không nghĩ suy và không hề rơi lệ.
Tôi sống ít, tận hưởng còn ít quá…
Nhưng đôi khi đã ngắt cánh hoa vui –
Và cuộc đời tôi chỉ mới bắt đầu.
1817
Не угрожай ленивцу молодому...
Не угрожай ленивцу молодому.
Безвременной кончины я не жду.
В венке любви к приюту гробовому
Не думав ни о чем, без ропота иду.
Я мало жил, я наслаждался мало...
Но иногда цветы веселья рвал --
Я жизни видел лишь начало
1817
29.DÒNG CHỮ TRÊN TƯỜNG BỆNH VIỆN
Chàng sinh viên ốm đang nằm kia
Số phận của chàng thật khắt khe.
Thuốc men xin hãy mang đi khỏi
Tình yêu là thứ bệnh nan y!
1817
Надпись на стене больницы
Вот здесь лежит больной студент;
Его судьба неумолима.
Несите прочь медикамент:
Болезнь любви неизлечима!
1817
30.GỬI
Xin đừng hỏi sao tôi thường u ám
Với ý nghĩ buồn giữa những trò vui
Sao đưa ánh mắt cau có nhìn đời
Sao giấc mộng ngọt ngào không thương mến!
Xin đừng hỏi sao tình yêu vui vậy
Tôi chia tay bằng tê tái cõi lòng
Không một ai tôi còn gọi người thương –
Ai yêu một lần, không còn yêu lại
Ai biết hạnh phúc, không còn biết lại
Hạnh phúc trong giây phút được trời ban:
Từ thời tuổi trẻ say mê ngập tràn
Chỉ một nỗi buồn tái tê còn lại…
1817
К ***
Не спрашивай, зачем унылой думой
Среди забав я часто омрачен,
Зачем на всё подъемлю взор угрюмый,
Зачем не мил мне сладкой жизни сон;
Не спрашивай, зачем душой остылой
Я разлюбил веселую любовь
И никого не называю милой --
Кто раз любил, уж не полюбит вновь;
Кто счастье знал, уж не узнает счастья.
На краткий миг блаженство нам дано:
От юности, от нег и сладострастья
Останется уныние одно...
1817
31.VÀO ALBUM
Tình sẽ đi qua, ước mong sẽ chết
Ánh sáng lạnh lùng sẽ chia lìa ta
Còn ai nhớ đến những lần gặp mặt
Mơ ước, hân hoan của tháng ngày qua?..
Cho phép tôi trong những trang lưu bút
Giữ vết tích giây lát cho người ta.
1817
В альбом
Пройдет любовь, умрут желанья;
Разлучит нас холодный свет;
Кто вспомнит тайные свиданья,
Мечты, восторги прежних лет?..
Позволь в листах воспоминанья
Оставить им минутный след.
<1817>